Ca ngợi một người thầy giáo lần đầu tiên đem chữ nổi từ miền nam ra miền bắc (1949)

Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2013

Hôm nay chúng ta tụ hội về đây, trong bầu không khí đầm ấm vui vẻ, kỷ niệm bảy mươi năm lần đầu tiên thầy Nguyễn Chí Thiện tới Hà Nội truyền bá chữ nổi bơ rai. Đồng thời kỷ niệm ngày mất lần thứ hai mươi của thầy, là một nhà giáo đáng kính, đã hết lòng dành trọn cuộc đời mình vì sự nghiệp người đồng tật. Chúng ta về đây với tất cả tấm lòng hồ hởi thành tâm luôn thường trực sẵn sàng với những tiềm thức nhân văn trong sáng cao quý để thực hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây, mà ông cha ta đã truyền lại từ ngàn xưa.
Chúng ta lại có dịp ngồi lại bên nhau chiêm ngưỡng tưởng nhớ tới người thầy đầy thiện tính nhân sinh ấy. Hoặc có thể cùng nhau ngược dòng thời gian đánh giá kỹ càng sâu sắc hơn về một người thầy luôn có tư tưởng hướng thiện, có nghĩa cử thuần hậu, người đã thể hiện hết mình qua những chặng đường dài gặp biết bao gian nan trắc trở, đã đến được cái đích cuối cùng đầy ngưỡng vọng đó.
Thầy Nguyễn Chí Thiện sinh năm 1911 mất năm 1991, trong một gia đình công chức trung lưu tại Sài Gòn. Khi thiếu thời, vốn tính thông minh, hiếu học có chí tiến thủ, có lòng vị tha, ham đọc sách khám phá tìm tòi tri thức mới, thích thể dục thể thao, say mê âm nhạc để hoàn thiện mình. Thầy đã đỗ đít lôm ở thời giáo dục thuộc Pháp. Đang sống trong hạnh phúc gia đình giữa độ tuổi thanh xuân đầy sức sống, sẵn sàng bước vào đời với niềm hy vọng tràn trề hứa hẹn ở tương lai, thì không may một tai nạn ghê gớm xảy tới bất khả kháng, rồi từ đấy thầy không còn nhìn thấy gì nữa. Hoang mang, thất vọng, cuộc đời chìm vào trong màn đêm đen tối bao phủ dầy đặc không lối thoát, phải sống với những chuỗi ngày dài lê thê vô nghĩa. Một hôm thầy nằm buồn bã suy nghĩ về cuộc đời bất hạnh của mình, chợt nhớ ra có lần được đọc một bài trong quyển tự vị la rút của Pháp, họ giới thiệu người mù Pháp với chữ nổi bờ rai. Như bừng tỉnh, Thầy mừng lắm và cho rằng đây là một nguồn ánh sáng mới, ló ra từ phía cuối đường hầm, thầy hy vọng rồi ra có thể giải tỏa được phần nào cái bức bách của những người tật nguyền không ánh sáng mà thầy hằng ngày đêm mong mỏi. Cũng từ lẽ đó thầy đã nảy ra một ý tưởng mới lạ, rất khoáng đạt và thấm đẫm tình người là trước hết mình tự cứu lấy mình, sau là cứu đến bạn. Hàm ý thông điệp này có nghĩa là thầy sẽ tự học bằng được thứ chữ nổi này với một thời gian không xa sẽ truyền bá cho mọi người mù ai ai cũng biết đọc biết viết, được học hành, tuy cuộc sống tối tăm nhưng quyết không dốt nát để có thể tự thân lập thân, trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Ý tưởng này được toàn gia đình và bạn bè ủng hộ nhiệt liệt.
Thầy vui vẻ bước vào chặng đường thứ nhất sau khi đã chọn Hà Nội là điểm đến, mặc dầu đã tiên liệu được nhiều gian lao thử thách về mọi mặt ở phía trước song thầy vẫn vững tâm bền chí không chùn bước. Đầu tiên thầy tìm đến một trường dạy người mù tại Sài Gòn, do nhà nước thuộc địa Pháp mở vào năm 1926 để xin học chữ nổi Bơ rai, và học phương pháp sư phạm bơ rai đối với người mù. Sau  đó viết thư sang Pháp mua một số học cụ như bảng viết, bàn tính, một số sách chữ nổi đã in sẵn bằng tiếng Pháp cần thiết để tham cứu. Khi hội đủ điều kiện rồi thầy mải miết ngày đêm không tiếc công sức, học tập luyện rèn bằng thành thạo. Thầy tự nghĩ ngày xưa Tôn Tẫn bị bức hại bị chặt cả hai bàn chân mà ông vẫn viết ra những pho sách binh pháp Tôn Tẫn có giá trị nổi tiếng thế giới xưa nay. Nhờ vậy thầy càng có quyết tâm cao sẽ thực hiện bằng được cái chân lý tình người thuần túy đó.
Chặng đường thứ hai của thầy càng khó khăn vất vả hơn nhiều, mặc dầu một người thì không còn ánh sáng, người thì chân yếu tay mềm, lần đầu tiên từ Sài Gòn ra Hà Nội, đất khách quê người, tiền của mang theo chẳng có là bao, nhưng thầy vẫn vững vàng, tự tin ở khả năng và việc làm thiện chí của mình, lấy câu ca dao cổ dọi sáng “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Sau khi đặt chân tới Hà Nội, thầy lo ngay việc đến Sở Giáo dục nộp đơn và trình bày, xin phép được mở trường dạy người mù, nhưng không thành công. Sau còn nhiều lần nữa đến Sở đề đạt nguyện vọng nhưng đều không có kết quả. Thầy không chịu bó tay, thuê ngay một ngôi nhà khác rộng rãi hơn, đi các ngả tìm vào những nhà có con em bị mù, vận động gia đình họ cho con em theo mình về nuôi dạy, ban đầu vất vả lắm mới có được gần hai mươi em. Ban ngày thầy dạy các em học văn hóa, học âm nhạc, học làm các mặt hàng thủ công, buổi tối thường đến các nhà giàu có làm công tác từ thiện, để có tiền trang trải chi tiêu cho trường. Cứ vậy, thầy kiên trì hơn chục năm trời, dần dần số các em cũng lên tới ngoài năm chục. Vào năm 1951, lúc đó Bộ Giáo dục thuộc Pháp mới quan tâm đến và công nhận là trường công lập, chu cấp hoàn toàn kinh phí cho nhà trường từ đấy và được chuyển trường đến một ngôi nhà ba tầng to đẹp rộng rãi đầy đủ tiện nghi, đó là ngôi nhà số 55 phố Quang trung, sau này là trụ sở thanh niên cứu quốc Việt Nam. Mọi người đi qua đường ngỡ ngàng nhìn vào tấm biển ở cổng đề hàng chữ trường chuyên nghiệp dạy người mù Hà Nội. Từ đây trường càng có nhiều người biết đến hơn, thường có nhiều đoàn khách trong nước và quốc tế đến thăm, tặng quà, động viên khích lệ bằng những tình cảm thân thương gần gũi đầy tình nhân ái.
Chặng đường thứ ba có nhiều thuận lợi tốt đẹp hơn song phải suy nghĩ cân nhắc đến thấu tình đạt lý, vì vào năm 1954 quân Pháp thất thủ tại mặt trận Điện Biên phủ, buộc chúng phải ký với ta Hiệp định đình chiến tại hội nghị Giơnevơ. Hai bên tạm thời chia cắt lấy vĩ tuyến mười bảy làm ranh giới, chờ hai năm sau sẽ Tổng tuyển cử từ đó, Bộ Giáo dục thuộc Pháp đốc thúc nhà trường hạn trong hai tháng phải chuyển vào Sài Gòn. Bây giờ trước mắt thầy có hai con đường, một là đi theo đế chế thuộc địa Pháp, hai là ở lại trong lòng dân tộc, độc lập tự do với non sông tổ quốc mình. Tất nhiên thầy đã chọn con đường ở lại. Thầy bình tĩnh cho người đóng đồ vào những chiếc hòm lớn tỏ ra sẵn sàng chấp lệnh, rồi trùng trình, khất lần, kéo dài cho đến ngày gần hết hạn thầy lặng lẽ khóa cửa và lánh mặt một thời gian. Đến ngày quân đội ta về tiếp quản Hà Nội thầy mới về đương nhiên được hưởng chính sách là một cán bộ công chức lưu dung và được phân công là giáo viên dạy thương binh tại trường thương binh hỏng mắt  Thầy làm việc ở đó đến khi nghỉ hưu, rồi lại cùng cả gia đình hồi hương về Sài Gòn nơi xuất phát. Lúc  này thầy đã có bảy người con: bốn trai, ba gái đều đã trưởng thành. Cả nhà thầy từ thầy cô, đến bẩy người vừa con trai con gái và bẩy người vừa con rể con dâu đều qua đại học, thông tin đại chúng đã nhiều lần đưa tin ca ngợi biểu dương gọi là một gia đình đại học, quần tụ bên nhau đầm ấm hạnh phúc, như một quần thể trí thức nhỏ. Thế là đời thầy đã đi được một lộ trình với một vòng đời khép kín, có ý nghĩa mình vì mọi người, để lại cho đời một tấm gương sáng xứng đáng cho chúng ta soi chung và mãi mãi biết ơn Người.
Đúng như một nhà thơ đã đúc kết.
Thầy đã dành ra trọn cuộc đời.
Khó khăn chẳng ngại khổ không rời.
Quyết vì sự nghiệp người đồng tật .
Thiện tính nhân sinh đến tuyệt vời.