Sĩ phu Bùi Viện.
Chủ Nhật, 21 tháng 9, 2014
Nhãn:
Bài viết
0
nhận xét
Ông Bùi Viện sinh năm 1839 tại
làng Trình Phố tổng An Bồi huyện Trực Định, phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định, nay là
thôn Trung, xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
Sinh trưởng trong một gia đình
dòng dõi nhà nho, cha ông làm nghề dạy học có tài và bốc thuốc rất mát tay. Ông
là người có tinh thần tương thân tương ái, nhiệt tình giúp đỡ bà con trong làng
xã. Bất kể là trẻ già trai gái giàu nghèo, bất kể là đêm hôm mưa gió mỗi khi ai
có bệnh gì đến mời thầy đến thăm khám kê đơn chữa bệnh giúp, ông đều không nề
hà, tận tình giúp đỡ bà con chu đáo, không lấy tiền của ai dù là một đồng nhỏ .
Ông Bùi Viện có tư chất thông
minh, hiếu học, có trí tiến thủ, có lòng vị tha. Khi đã được làm quan trong
triều Nguyễn, mỗi khi ông về thăm gia đình và cha mẹ, ông rất bình dân gần gũi
với mọi người, thân thương các cháu nhỏ, rất có đức độ với những người già
trong làng xã. Ông thường gọi những người ít tuổi hơn mình là các chú kể cả những
người làm ăn giúp việc trong nhà. Ông rất có lòng hiếu thảo với cha mẹ, mỗi khi
cha mẹ già ốm đau ông thường xin phép vua về để chính tay mình được hầu hạ cha
mẹ một cách cẩn trọng. Ông thường tự mình sắc thuốc và hai tay bê đến tận nơi
mời cha hay mẹ dùng thuốc và dùng quạt nam để quạt mát cho cha mẹ. Vua Tự Đức thấy
ông có lòng hiếu thảo với cha mẹ như vậy, đã vận động một người con gái trong
hoàng tộc nhà vua làm tì thiếp cho cha ông để có người chăm lo nuôi dưỡng báo
đáp thay ông, để ông rảnh rang làm tròn bổn phận với mọi công việc triều đình đã
giao phó.
Có một lần khi ông đã làm đến chức
tổng quản đốc tuần dương nha hải quân, Ông đã tặng làng một cây cột cờ bằng gỗ dài
mười mét. Cả làng nhất trí chọn một hôm tốt ngày, các vị hương chức già cả trong
làng và trai tráng khỏe mạnh tổ chức lễ thần rồi dựng cột cờ đó lên. Nhưng dù gắng
sức đến đâu cũng không thể dựng nổi cây cờ đó lên được. Trong Họ phải cử người vào
thưa với quan tham, sự việc diễn ra như vậy. Ông cười vui vẻ mà nói, “Các chú cứ ra ngoài đó
bảo mọi người nghỉ ngơi uống nước, chờ tôi sẽ ra sau”. Khi ông ra tới nơi, ông nói
với mọi người và dặn dò cách thức như thế như thế thì mới có thể dựng cây cột
cờ đó lên được. Xong ông ra chỗ cây cột cờ dùng ba tông đập vào thân cây cột cờ
ba lần, hô “Kéo! Kéo! Kéo!” thật to, mọi người đồng loạt hò reo vang dậy. Nhờ có
niềm tin và cái oai của ông, quả nhiên cây cột cờ đã từ từ dựng thẳng lên, lá cờ
thần phần phật bay trước gió. Mọi người vui mừng hò reo không ngớt.
Ông Bùi Viện hai lần khoa cử Xuất
chính làm quan trong thời nhà Nguyễn. Năm 1864, ông đỗ Tú tài, năm 1868, ông đỗ
Cử nhân. Em trai ông là Bùi Phủng cũng đỗ cử nhân, được bổ nhiệm làm Án sát tại
Hưng Hóa. Đến năm 1871, ông nhận nhiệm sở, giúp Lê Tuấn những công việc trong
bộ Lễ. Khi công việc hoàn thành trở về, ông được ông Doãn Khuê - Quan doanh
điền xứ Nam Định mời ra coi việc khai khẩn đất đai hoang hóa lập nên huyện Tiền
Hải bây giờ. Năm 1873, trước khi vua Tự Đức phải ký hòa ước ngày 15 tháng 3 năm
1874 nhượng bộ nhiều yêu sách của thực dân Pháp, nguy cơ mất nước đã rõ, Triều đình
đã có chủ trương tìm kiếm những đối trọng ở nước ngoài để trấn hưng đất nước và
cứu vãn họa xâm lăng của thực dân Pháp. Bùi Viện đã nhận xứ mạng sang Mỹ do sự
tiến cử của một vị đại thần trong triều đình Tự Đức. Bùi Viện lúc đó đã được xem
như một nhà kinh bang tế thế, có công lớn xây dựng thành công cảng Hải Phòng,
lập ra Tuần dương hải quân thường trực gồm có trên hai trăm chiến thuyền và có trên
hai nghìn hải quân tinh nhuệ trấn giữ biên cương, lập ra nhiều thương điếm ở
các tỉnh ven biển. Sau đó, từ cửa biển Thuận An, Bùi Viện xuống thuyền ra Bắc.
Vào tháng Bảy năm Quý Dậu tức tháng Tám năm 1873, hai tháng sau Ông đến Hương cảng,
lúc đó đã là nhượng địa của nước Anh và là đầu mối giao liên từ châu Á đến thế
giới phương Tây. Ở đây Bùi Viện đã kết giao được với viên lãnh sự Hoa Kỳ, hai
bên giao thiệp, hiểu được ý đồ của nhau, Viên lãnh sự đã viết thư giới thiệu với
một người bạn ở Hoa Kỳ, có khả năng giúp Bùi Viện tiếp cận với nguyên thủ quốc
gia này. Sau đó, Bùi Viện đã qua Hoành Tân, Nhật Bản đáp tàu sang Mỹ rồi lưu lại
ở đó, và mất một năm vận động mới gặp được Tổng thống Mỹ Uy nit xet, nhiệm kỳ
1868-1876. Lúc này Pháp và Mỹ đang kình địch nhau trong chiến tranh ở Mê-xi-cô
nên Mỹ cũng có ý giúp một quốc gia đang bị Pháp gây hấn. Tuy nhiên, Bùi Viện
không mang theo Quốc thư nên hai bên không thể có một cam kết chính thức. Ông
lại quay về Việt nam trở lại kinh thành Huế. Có được Quốc thư ủy nhiệm của vua
Tự Đức, Bùi Viện lại xuất dương một lần nữa năm 1875. Ngày 11 tháng 9 năm 1875,
ông lại có mặt ở Hoa Kỳ mang trong tay Quốc thư. Nhưng lúc này, Pháp Mỹ đã hết
thù địch nên Tổng thống Mỹ Uy nit xet lại khước từ sự cam kết giúp Việt Nam
đánh Pháp. Bùi Viện về nước, vừa đặt chân tới bờ thì nghe tin mẹ từ trần nên đã
về quê chịu tang ba tháng. Sau Bùi Viện lại được triệu về kinh đô giữ chức Thương
chánh tham viện, rồi được chuyển sang chánh quản đốc nha tuần hải. Chẳng bao
lâu sau, Bùi Viện qua đời đột ngột khi tuổi chưa đầy bốn mươi. Triều đình nhà Nguyễn
đánh giá hành trạng tư tưởng của Bùi Viện cũng thường được xếp chung vào lớp sĩ
phu có tư tưởng Canh Tân như Phạm Phú Thứ, Nguyễn Lộ, Nguyễn Trường Tộ. Vua Tự
Đức đã có lời phê, “Trẫm đối với ngươi chưa có ân nghĩa gì, ngươi đã coi việc nước
như việc nhà, không quản xa xôi lo lắng”. Lê Văn Hảo cho rằng ông là nhà ngoại
giao xuất sắc và một sự nghiệp lớn dở dang. Nguyễn Duy Chính cho rằng Bùi Viện
và cuộc cải cách hải quân đã thành công lớn.
Bùi Viện sinh năm 1839, mất năm
1878, làm quan thời nhà Nguyễn, người Thái Bình. Bùi viện là một nhà cải cách
nổi tiếng, là một nhà ngoại giao có tài, là sứ giả đầu tiên của Việt Nam lãnh
nhận với triều đình nhà Nguyễn một sứ mạng quan trọng đặc biệt, đó là ngoại
giao hòa hiếu với chính phủ Mỹ để có thể tránh khỏi một cuộc chiến tranh với
thực dân Pháp, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của non sông Tổ quốc ta. Thật là đáng
tiếc Bùi Viện đã mất quá sớm với cái tuổi ba mươi chín, khi đang đứng trước một
sứ mạng vô cùng trọng đại của đất nước. Ông là một kỳ tài đứng trước một kỳ công
to lớn, một sứ mạng vô cùng lớn lao của dân
tộc trong lúc đất nước đang lâm nguy bởi họa xâm lăng của thế lực thực
dân xâm lược. Ông ra đi để lại cho hậu thế một nỗi tiếc thương vô hạn .
Hà Nội, ngày 25 tháng 8 năm 2014.
Đằng Giang - Bùi Văn Biềng.

0 nhận xét: to “ Sĩ phu Bùi Viện. ” so far...
Đăng nhận xét