Không gian thơ Bùi Văn Biềng - Thi đàn Việt Nam

Thứ Ba, 16 tháng 12, 2014

Phóng sự nhà thơ Đằng Giang - hơn cả một ánh sao đêm

Thứ Ba, 14 tháng 10, 2014

Danh nhân Bùi Viện.

Chủ Nhật, 21 tháng 9, 2014



Sĩ phu Bùi Viện bậc tiên hiền.
Ái quốc trung quân nghĩa khí kiên.
Chuyển thế cờ tìm phương cứu nước.
Xoày chiều gió thuận đất trời yên.
Mở mang hải cảng giao thương rộng.
Củng cố tuần dương trấn giữ biên.
Tư tưởng Canh tân gương chói lọi.
Kinh bang tế thế vị nhân quyền.

Đằng Giang - Bùi Văn Biềng.

Hà Nội, ngày 21 tháng 8  năm 2014.

Sĩ phu Bùi Viện.


Ông Bùi Viện sinh năm 1839 tại làng Trình Phố tổng An Bồi huyện Trực Định, phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định, nay là thôn Trung, xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.
Sinh trưởng trong một gia đình dòng dõi nhà nho, cha ông làm nghề dạy học có tài và bốc thuốc rất mát tay. Ông là người có tinh thần tương thân tương ái, nhiệt tình giúp đỡ bà con trong làng xã. Bất kể là trẻ già trai gái giàu nghèo, bất kể là đêm hôm mưa gió mỗi khi ai có bệnh gì đến mời thầy đến thăm khám kê đơn chữa bệnh giúp, ông đều không nề hà, tận tình giúp đỡ bà con chu đáo, không lấy tiền của ai dù là một đồng nhỏ .
Ông Bùi Viện có tư chất thông minh, hiếu học, có trí tiến thủ, có lòng vị tha. Khi đã được làm quan trong triều Nguyễn, mỗi khi ông về thăm gia đình và cha mẹ, ông rất bình dân gần gũi với mọi người, thân thương các cháu nhỏ, rất có đức độ với những người già trong làng xã. Ông thường gọi những người ít tuổi hơn mình là các chú kể cả những người làm ăn giúp việc trong nhà. Ông rất có lòng hiếu thảo với cha mẹ, mỗi khi cha mẹ già ốm đau ông thường xin phép vua về để chính tay mình được hầu hạ cha mẹ một cách cẩn trọng. Ông thường tự mình sắc thuốc và hai tay bê đến tận nơi mời cha hay mẹ dùng thuốc và dùng quạt nam để quạt mát cho cha mẹ. Vua Tự Đức thấy ông có lòng hiếu thảo với cha mẹ như vậy, đã vận động một người con gái trong hoàng tộc nhà vua làm tì thiếp cho cha ông để có người chăm lo nuôi dưỡng báo đáp thay ông, để ông rảnh rang làm tròn bổn phận với mọi công việc triều đình đã giao phó.
Có một lần khi ông đã làm đến chức tổng quản đốc tuần dương nha hải quân, Ông đã tặng làng một cây cột cờ bằng gỗ dài mười mét. Cả làng nhất trí chọn một hôm tốt ngày, các vị hương chức già cả trong làng và trai tráng khỏe mạnh tổ chức lễ thần rồi dựng cột cờ đó lên. Nhưng dù gắng sức đến đâu cũng không thể dựng nổi cây cờ đó lên được. Trong Họ phải cử người vào thưa với quan tham, sự việc diễn ra như vậy. Ông  cười vui vẻ mà nói, “Các chú cứ ra ngoài đó bảo mọi người nghỉ ngơi uống nước, chờ tôi sẽ ra sau”. Khi ông ra tới nơi, ông nói với mọi người và dặn dò cách thức như thế như thế thì mới có thể dựng cây cột cờ đó lên được. Xong ông ra chỗ cây cột cờ dùng ba tông đập vào thân cây cột cờ ba lần, hô “Kéo! Kéo! Kéo!” thật to, mọi người đồng loạt hò reo vang dậy. Nhờ có niềm tin và cái oai của ông, quả nhiên cây cột cờ đã từ từ dựng thẳng lên, lá cờ thần phần phật bay trước gió. Mọi người vui mừng hò reo không ngớt.
Ông Bùi Viện hai lần khoa cử Xuất chính làm quan trong thời nhà Nguyễn. Năm 1864, ông đỗ Tú tài, năm 1868, ông đỗ Cử nhân. Em trai ông là Bùi Phủng cũng đỗ cử nhân, được bổ nhiệm làm Án sát tại Hưng Hóa. Đến năm 1871, ông nhận nhiệm sở, giúp Lê Tuấn những công việc trong bộ Lễ. Khi công việc hoàn thành trở về, ông được ông Doãn Khuê - Quan doanh điền xứ Nam Định mời ra coi việc khai khẩn đất đai hoang hóa lập nên huyện Tiền Hải bây giờ. Năm 1873, trước khi vua Tự Đức phải ký hòa ước ngày 15 tháng 3 năm 1874 nhượng bộ nhiều yêu sách của thực dân Pháp, nguy cơ mất nước đã rõ, Triều đình đã có chủ trương tìm kiếm những đối trọng ở nước ngoài để trấn hưng đất nước và cứu vãn họa xâm lăng của thực dân Pháp. Bùi Viện đã nhận xứ mạng sang Mỹ do sự tiến cử của một vị đại thần trong triều đình Tự Đức. Bùi Viện lúc đó đã được xem như một nhà kinh bang tế thế, có công lớn xây dựng thành công cảng Hải Phòng, lập ra Tuần dương hải quân thường trực gồm có trên hai trăm chiến thuyền và có trên hai nghìn hải quân tinh nhuệ trấn giữ biên cương, lập ra nhiều thương điếm ở các tỉnh ven biển. Sau đó, từ cửa biển Thuận An, Bùi Viện xuống thuyền ra Bắc. Vào tháng Bảy năm Quý Dậu tức tháng Tám năm 1873, hai tháng sau Ông đến Hương cảng, lúc đó đã là nhượng địa của nước Anh và là đầu mối giao liên từ châu Á đến thế giới phương Tây. Ở đây Bùi Viện đã kết giao được với viên lãnh sự Hoa Kỳ, hai bên giao thiệp, hiểu được ý đồ của nhau, Viên lãnh sự đã viết thư giới thiệu với một người bạn ở Hoa Kỳ, có khả năng giúp Bùi Viện tiếp cận với nguyên thủ quốc gia này. Sau đó, Bùi Viện đã qua Hoành Tân, Nhật Bản đáp tàu sang Mỹ rồi lưu lại ở đó, và mất một năm vận động mới gặp được Tổng thống Mỹ Uy nit xet, nhiệm kỳ 1868-1876. Lúc này Pháp và Mỹ đang kình địch nhau trong chiến tranh ở Mê-xi-cô nên Mỹ cũng có ý giúp một quốc gia đang bị Pháp gây hấn. Tuy nhiên, Bùi Viện không mang theo Quốc thư nên hai bên không thể có một cam kết chính thức. Ông lại quay về Việt nam trở lại kinh thành Huế. Có được Quốc thư ủy nhiệm của vua Tự Đức, Bùi Viện lại xuất dương một lần nữa năm 1875. Ngày 11 tháng 9 năm 1875, ông lại có mặt ở Hoa Kỳ mang trong tay Quốc thư. Nhưng lúc này, Pháp Mỹ đã hết thù địch nên Tổng thống Mỹ Uy nit xet lại khước từ sự cam kết giúp Việt Nam đánh Pháp. Bùi Viện về nước, vừa đặt chân tới bờ thì nghe tin mẹ từ trần nên đã về quê chịu tang ba tháng. Sau Bùi Viện lại được triệu về kinh đô giữ chức Thương chánh tham viện, rồi được chuyển sang chánh quản đốc nha tuần hải. Chẳng bao lâu sau, Bùi Viện qua đời đột ngột khi tuổi chưa đầy bốn mươi. Triều đình nhà Nguyễn đánh giá hành trạng tư tưởng của Bùi Viện cũng thường được xếp chung vào lớp sĩ phu có tư tưởng Canh Tân như Phạm Phú Thứ, Nguyễn Lộ, Nguyễn Trường Tộ. Vua Tự Đức đã có lời phê, “Trẫm đối với ngươi chưa có ân nghĩa gì, ngươi đã coi việc nước như việc nhà, không quản xa xôi lo lắng”. Lê Văn Hảo cho rằng ông là nhà ngoại giao xuất sắc và một sự nghiệp lớn dở dang. Nguyễn Duy Chính cho rằng Bùi Viện và cuộc cải cách hải quân đã thành công lớn.

Bùi Viện sinh năm 1839, mất năm 1878, làm quan thời nhà Nguyễn, người Thái Bình. Bùi viện là một nhà cải cách nổi tiếng, là một nhà ngoại giao có tài, là sứ giả đầu tiên của Việt Nam lãnh nhận với triều đình nhà Nguyễn một sứ mạng quan trọng đặc biệt, đó là ngoại giao hòa hiếu với chính phủ Mỹ để có thể tránh khỏi một cuộc chiến tranh với thực dân Pháp, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của non sông Tổ quốc ta. Thật là đáng tiếc Bùi Viện đã mất quá sớm với cái tuổi ba mươi chín, khi đang đứng trước một sứ mạng vô cùng trọng đại của đất nước. Ông là một kỳ tài đứng trước một kỳ công to lớn, một sứ mạng vô cùng lớn lao của dân  tộc trong lúc đất nước đang lâm nguy bởi họa xâm lăng của thế lực thực dân xâm lược. Ông ra đi để lại cho hậu thế một nỗi tiếc thương vô hạn .

Hà Nội, ngày 25 tháng 8 năm 2014.
Đằng Giang - Bùi Văn Biềng.



Vui Hội thơ đường

Thứ Ba, 15 tháng 7, 2014


Vào ngày quốc giỗ Đức Hùng Vương.
Lữ khách tao đàn khắp bốn Phương.
Náo nức trở về thăm đất Tổ.
Hân hoan họp mặt hội thơ đường.
Dâng hương kính lễ trên đền Thượng.
Ngâm vịnh giao lưu tại hội trường.
Lăng miếu đền đài càng chói lọi.

Dấu son kỳ rượu thuở tinh sương.

Trăng soi


Vằng vặc trăng soi phủ một trời.
Bên thềm sào sạc lad thu rơi.
Sương dăng lạnh lẽo tình vương vấn.
Nhớ đến người xưa một cuộc đời.

Anh ở nơi đây em ở đâu.
Qua bao năm tháng giấc mơ sầu.
Nhớ thương thảm thiết mà không dứt.
Khắc khoải nhìn về chốn thẳm sâu.

Lạnh lẽo đêm nay cạn chén nồng.
Nên chăng sưởi ấm lại cô phòng.
Nhưng sao chỉ thấy lòng băng giá.

Chất chứa trong lòng những mỏi mong.

Tình thâm giao



Tôi với anh tuy chẳng họ hàng.
Không quyền chức cũng chẳng giầu sang.
Thực ra chỉ có lời trong gió.
Kết mối tơ vương quá kỹ càng.

Đến với nhau không có hẹn hò.
Vui mừng như được của trời cho.
Chỉ bằng những ý thơ đưa lối.
Mà hiểu về nhau chẳng phải dò.

Cứ thế thời gian được đắp bồi.
Như hình với bóng tấm tình đôi.
Thân thương gần gũi đầy thiện cảm.
Bẩy chục năm trời vẫn chẩy trôi.

Cứ mỗi vần thơ một đóa hoa.
Bốn mùa đua nở để làm quà.
Tặng nhau khăng khít tình thân thiện.

Giữ mối thâm giao mãi hợp  hòa.

Tìm hạnh phúc


Hạnh phúc là điều ai ai cũng mong muốn.
Đồng hành cùng ta suốt cả cuộc đời.
Nhưng không phải là bạc vàng châu báu nhé.
Cái chính là đầu óc được thảnh thơi.

Cứ nghĩ mà xem cuộc đời sao ngắn quá.
Bon chen dành giật để làm gì.
Mang nhiều hệ lụy đắng cay chứa chất lại.
Lọt vào tai những miện tiếng thị phi.

Cuộc sống làm sao hạnh phúc được.
Hãy thả ra cho vợ bớt những nỗi niềm.
Cứ chen chúc mãi vào vòng tâm khảm.
Ngổn ngang trong dạ những ẩn tiềm.

Sao có thể yêu đời bằng bi lụy.
Giải phóng ra cho nhẹ nhõm con tim.
Đừng đứng ở núi này trông núi nọ.
Chẳng bao giờ ta thấy được cái ta muốn tìm.

Đẻ rồi chỉ nhận được những cô đơn lạnh lẽo.
Một cõi đời người chẳng có hai đâu.
Phấn đấu lấy hai chữ vàng hạnh phúc.

Là điều ta luôn phải khẩn cầu.

Thủy chung


Anh ở đâu em ở đâu.
Chúng ta như ở hai đầu con sông.
Mà ai chắp mối chỉ hồng.
Cho ta chung nhịp tim nồng bấy nay.
Như gió cuốn như men say.
Keo sơn quấn quít mảy may không rời.
Lưng trời còn có mây trôi .
Nước sông còn có khi vơi khi đầy.
Tình ta như gió với mây.
Lòng trung thủy mãi vẫn đầy thủy trung.
Dù đi đất cuối trời cùng.

Sắt son chọn nghĩa thủy trung vẹn tình.

Thu đã về


Thu đã về trời se se lạnh.
Mây đổi chiều phơ phất gió heo may.
Hoa phượng đỏ đã chuyển mầu sang tím nhạt.
Lá vàng rơi theo gió lãng đãng bay.

Như báo hiệu mùa thu đang về đấy.
Các hàng dong phố nhỏ lảnh lót cất tiếng rao.
Ai mua hồng hạc trì vừ dòn vừa ngọt.
Cốm vòng mới gói lá sen xanh tíu tít mời chào.

Mùa thu mới trời xanh trong cao vời vợi.
Vui lòng em và rạng rỡ lòng anh.
Deo vào trong ta một niềm vui hồ hởi.
Như lá xanh còn tươi lại trên cành.

Mùa thu đẹp chỉ thấy khi mùa thu sắp hết.
Tình đôi ta như trái ngọt chín mồi.
Thời gian đã đi đâu còn quay lại.

Xích lại đi em tình ta đã thuận cả rồi.

Thật đáng ghét


Dân số loài mèo chẳng ít đâu .
Mà sao lũ chuột vẫn đương đầu.
Anh xù chẳng ngại đôi răng nhọn.
Chị cống sợ gì cái bộ râu.
Sớm tối vào ra đầy thách thức.
Ngày đêm lui tới nể ai đâu.
Bình chân như vại không xuy nghĩ .

Cửa trước không xong có cửa sau.

Nỗi tiếc thương


Bác Giáp đi xa mãi mãi rồi.
Lòng người thương tiếc đến khôn nguôi.
Một đời đánh bại ba cường bạo.

Vĩ đại dường nào Tổ Quốc tôi.

Niềm tin


Cánh buồm nâu dăng rộng ra hứng gió.
vun vút trôi giữa đại dương xanh.
Như con ngựa chiến hý vang.
Phi thân qua vùng sa mạc.
Đường ở đâu lối ở đâu.
Xa lơ xa lắc.
Nhưng buồm cứ dăng thuyền cứ trôi băng băng.
Cứ thế cứ thế cho đến lúc.
Tiếng reo dậy sóng.
Đã đến đích đã đến đích.
Niềm tin chính là sự sống.

Niềm tin là sức mạnh rượu kỳ.

Nhớ


Thu đã qua rồi đông lại sang.
Bao đêm thao thức nhớ thương nàng.
Chiêm bao gặp gỡ người trong mộng.

Tỉnh giấc ôi chao thật ngỡ ngàng.

Mưa thu


Thánh thót mưa thu động mối sầu.
Nỗi niềm thương nhớ đổ về đâu.
Đêm ngày khắc khoải tim chùng xuống.
Năm tháng chia phôi dỏ dọt châu.
Đôi mắt tròn đen đầy thiện  cảm
Nụ cười hoa nở đượm muôn mầu.
Quên sao bóng dáng tâm tình ấy.

Sớm đã đi về chốn thẳm sâu.